Ngành nuôi tôm toàn cầu, đặc biệt tại Việt Nam, đang phát triển với tốc độ rất nhanh. Việc mở rộng quy mô nuôi kéo theo nhiều mầm bệnh nguy hiểm xuất hiện. Các mầm bệnh này đe dọa sự phát triển bền vững của ngành nuôi tôm. Chúng cũng gây ra thiệt hại kinh tế nghiêm trọng cho người nuôi. Việc kiểm soát và phòng bệnh trở nên ngày càng cấp thiết hơn bao giờ hết. Hiểu đúng về các bệnh phổ biến sẽ giúp người nuôi chủ động phòng tránh hiệu quả. Hãy cùng Thủy Sản 365 điểm qua các bệnh trên tôm do virus và vi khuẩn gây ra.
Bệnh đầu vàng – YHD
Bệnh đầu vàng (Yellow Head Disease – YHD) trên tôm sú do virus baculovirus gây ra với kích thước 44 ± 6×173 ± 13nm. Nhân của virus có đường kính gần 15nm và dài tới 800nm.
Tôm sú mắc bệnh đầu vàng do sự xuất hiện của filovirus trong hệ bạch huyết. Virus hình thành trong tế bào chất của các tế bào lympho. Biểu hiện ban đầu là tôm lớn nhanh và ăn nhiều hơn bình thường. Sau đó, tôm đột ngột bỏ ăn không rõ nguyên nhân. Chỉ sau một đến hai ngày, tôm bắt đầu dạt vào bờ. Cuối cùng, tôm chết hàng loạt gây thiệt hại nghiêm trọng.
Mang và gan tụy có màu vàng nhạt, toàn thân nhợt nhạt. Bệnh đầu vàng có thể gây tử vong nặng tới 100% trong 3-5 ngày. Bệnh xảy ra hầu hết ở những ao nuôi có điều kiện môi trường khắc nghiệt và ở những nơi có mật độ nuôi dày. Bệnh có thể xuất hiện sớm nhất là 20 ngày sau khi thả giống. Và thường gặp nhất ở các ao nuôi tôm sú thâm canh 50-70 ngày. Ngoài ra, bệnh còn gặp ở một số tôm tự nhiên khác: tôm thẻ chân trắng, tôm bạc, tôm càng xanh…
Khi tôm bị bệnh, cần áp dụng các phương pháp phòng bệnh toàn diện. Tránh vận chuyển tôm từ vùng nhiễm bệnh sang vùng chưa phát hiện để hạn chế lây lan dịch bệnh lân cận. Tôm chết được vớt ra khỏi ao và tốt nhất là chôn sống hoặc đốt trong lò vôi. Nước ao nuôi tôm bị bệnh không được xả và xử lý bằng vôi sống hoặc vôi khử trùng (theo phương pháp tẩy ao).
Bệnh trên tôm do vi khuẩn – Bệnh đốm nâu
Bệnh đốm nâu xảy ra quanh năm, từ tôm ấu trùng đến tôm trưởng thành. Tuy nhiên, khi bị bệnh, tỷ lệ hao hụt của tôm con cao hơn tôm lớn.
Bệnh đốm nâu thường xuất hiện sau 2-3 tháng nuôi, thân tôm xuất hiện đốm nâu sau đó chuyển sang màu đen. Trong quá trình nhiễm bệnh, thường xảy ra hiện tượng ăn mòn các phần phụ như đuôi, bụng và râu của tôm. Bệnh này, còn được gọi là bệnh hoại tử, do vi khuẩn gây ra và cũng có thể do điều kiện vệ sinh của tôm. Tôm bị bệnh đốm nâu sẽ rất yếu, kém bổ dưỡng, mất sức, gầy yếu, di chuyển chậm và chết rải rác.
Tác nhân gây bệnh chủ yếu là vi khuẩn Aeromonas. Khi tôm bị bệnh thay nước dần. Công tác phòng chống bệnh đốm nâu bao gồm:
- Cải thiện môi trường nuôi thông qua chăm sóc, quản lý và dinh dưỡng đầy đủ.
- San phẳng đáy ao, tăng cường môi trường sống của tôm, giảm tập kết đàn.
- Cung cấp đầy đủ thức ăn và duy trì chất lượng nước ao nuôi.
- Cho tôm ăn nhiều dinh dưỡng hơn và giúp tôm kháng bệnh đốm nâu.
Bệnh phân trắng
Bệnh phân trắng là bệnh thường gặp trong nuôi tôm thẻ chân trắng. Bệnh này chủ yếu xảy ra ở tôm nuôi trên 1 tháng, phổ biến nhất ở 80-90 ngày tuổi. Hiện tượng đi ngoài ra phân trắng liên quan đến nhiều yếu tố như môi trường, mật độ nuôi và công nghệ nuôi.
Đây không phải là một bệnh nguy hiểm như bệnh đốm trắng hay đầu vàng. Đặc biệt là hiếm khi lây lan thành dịch, nhưng nó cũng có thể làm giảm năng suất và gây hại cho người nuôi tôm.
Bệnh thường gặp vào mùa nắng nóng, nhiệt độ nước cao hoặc ao nuôi mật độ dày (trên 40 con/m2). Có 3 nguyên nhân chính gây bệnh là: Thức ăn, tảo độc và vi khuẩn. Có thể khẳng định, ô nhiễm môi trường là nguyên nhân tạo điều kiện cho sự phát triển và xâm nhập của các loại tảo độc, vi khuẩn, vi rút vào cơ thể tôm. Tôm nhiễm bệnh phân trắng thường bỏ ăn, phân nổi trên mặt nước, dọc theo bờ ao, góc ao, theo chiều quạt, chiều gió.
Để phòng bệnh phần trắng, cần thả tôm với mật độ thích hợp (20-25 con/m2). Xử lý và chuẩn bị ao nuôi cẩn thận, không sử dụng thức ăn tươi sống: nghêu, sò, cá… Thực hiện các bước thay nước và theo dõi tôm trong vó thường xuyên.
Bệnh vi khuẩn dạng sợi
Nguyên nhân của bệnh này là do vi khuẩn Leucothrix sp, chúng phát triển mạnh ở những vùng đất giàu chất hữu cơ và vô cơ (phốt phát, nitrat). Bệnh xảy ra trên tôm ở tất cả các giai đoạn, kể cả nước lợ, nước mặn và nước ngọt.
Ở tôm bệnh nặng, vi khuẩn còn xuất hiện trên trứng. Chúng cản trở nghiêm trọng quá trình hô hấp bình thường của tôm. Vi khuẩn dạng sợi cũng làm gián đoạn quá trình nở của trứng. Ở ấu trùng, vi khuẩn gây khó khăn trong quá trình lột xác. Các hoạt động sống khác của ấu trùng cũng bị ảnh hưởng rõ rệt. Khi bệnh nặng, mang tôm chuyển từ vàng sang xanh lục hoặc nâu, tùy theo màu nước ao.
Nếu phát hiện sớm, bệnh có thể được điều trị hiệu quả, có thể xử lý bằng đồng sunfat (CuSO4) trong 24h. Để phòng bệnh cần đảm bảo nguồn dinh dưỡng và duy trì môi trường chăn nuôi tốt, có hàm lượng oxy hòa tan cao và ít cung cấp chất hữu cơ.
Bệnh phát sáng ở tôm
Bệnh phát sáng trên tôm do một nhóm vi khuẩn Vibrio gây ra, trong đó nguy hiểm nhất là Vibrio harvey. Tôm sú, tôm thẻ chân trắng, tôm càng xanh lớn và các giống khác bị bệnh này phổ biến quanh năm.
Bệnh phát sáng có thể xảy ra ở mọi giai đoạn, từ trứng đến tôm trưởng thành. Tôm cũng có thể nhiễm bệnh từ môi trường nước ao nuôi bị ô nhiễm. Trong trại giống, mầm bệnh lây chủ yếu qua đường ruột từ tôm mẹ. Mầm bệnh truyền sang ấu trùng trong giai đoạn sinh sản. Bệnh phát triển mạnh ở vùng nước giàu dinh dưỡng và độ mặn cao. Thiếu ôxy hòa tan là điều kiện thuận lợi khiến bệnh bùng phát nhanh chóng. Bệnh thường lây lan nhanh trong thời tiết nắng nóng kéo dài.
Tôm nhiễm bệnh, cơ thể phát sáng, yếu ớt, bơi không định hướng, dạt vào bờ, phản ứng chậm, bỏ ăn và chết hàng loạt. Mang và thân tôm có màu đen, bẩn và đục, gan bị viêm và teo, tôm mất chức năng tiêu hóa. Tôm giống nhiễm bệnh có màu trắng sữa, nhiễm bệnh phát sáng nặng, lắng xuống đáy ao nuôi, chết hàng loạt.
Để phòng bệnh, cần thay nước thường xuyên, sục đáy và hút bùn định kỳ. Việc này giúp giảm lượng chất hữu cơ tích tụ trong ao nuôi. Bổ sung vitamin C, vitamin tổng hợp và khoáng vi lượng vào khẩu phần ăn hàng ngày. Thêm men tiêu hóa giúp tăng kháng thể và cải thiện sức đề kháng cho tôm.
Bệnh do nhóm vi khuẩn Vibrio xuất hiện trên tôm
Vibrio thường gây bệnh cho động vật thủy sản nước mặn và nước ngọt. Đối với cá Vibrio chủ yếu gây bệnh nhiễm khuẩn đến đường máu tôm là chủ yếu.
Ở tôm, vi khuẩn Vibrio spp gây bệnh phát sáng và ăn mòn lớp kitin ngoài cơ thể. Tôm nhiễm bệnh thường có màu đỏ dọc thân hoặc đổi sang xanh bất thường. Chúng có thể nổi trên mặt ao, dạt vào bờ hoặc bơi thành đàn. Biểu hiện khác gồm trạng thái lờ đờ, chán ăn hoặc hoàn toàn bỏ ăn. Trên cơ thể xuất hiện các vết hoại tử rõ rệt và ăn mòn trên vỏ. Các phần phụ như chân, râu cũng bị tổn thương, hoại tử nghiêm trọng. Vibrio spp thường có mặt ở vùng nước biển và ven biển. Chúng cũng được tìm thấy trong ao ương tảo và ao ương Artemia. Ngoài ra, Vibrio còn xuất hiện trong các ao nuôi ấu trùng tôm.
Tôm bị bệnh đốm trắng
Bệnh đặc trưng bởi nhiều đốm trắng có kích thước 0,5 – 2,0 mm bên trong vỏ tôm, đặc biệt là trên giáp đầu ngực, đoạn bụng thứ 5 và thứ 6 và khắp cơ thể. Ngoài ra, bệnh đốm trắng ở tôm có thể làm tôm kém chất lượng, ăn quá nhiều, bỏ ăn, bơi chậm nổi trên mặt nước hoặc dạt vào bờ ao. Đôi khi thân tôm có màu đỏ ở thân.
Bệnh thường xuất hiện sau khi thả nuôi 1-2 tháng, dễ xuất hiện khi môi trường nuôi tôm kém. Khi xuất hiện đốm trắng sau 3-10 ngày hầu hết tôm trong ao chết với tỷ lệ chết cao và nhanh. Vi rút có thể được truyền từ mẹ sang con, từ cá thể ốm sang cá thể khỏe mạnh và từ sinh vật mang mầm bệnh sang tôm nuôi.
Bệnh có thể lây lan từ ao này sang ao khác qua nguồn nước ô nhiễm. Chim di cư cũng là tác nhân mang mầm bệnh lây lan giữa các khu nuôi. Hiện chưa có thuốc đặc trị bệnh đốm trắng trên tôm. Vì vậy, biện pháp phòng ngừa vẫn là lựa chọn hiệu quả nhất hiện nay. Tôm bố mẹ cần được kiểm tra virus WSSV trước khi cho sinh sản. Phương pháp xét nghiệm PCR giúp phát hiện sớm virus gây bệnh nguy hiểm.
Trong quá trình nuôi phải quản lý tốt môi trường ao nuôi tránh thay đổi môi trường đột ngột sẽ làm ảnh hưởng môi trường đến tôm giống. Nuôi tôm phải theo quy trình khép kín, ít thay nước, nước vào ao phải được lọc kỹ, diệt mầm bệnh, thêm ao lắng nếu có thể.
Hepatopancreatic Parvovirus – HPV
Đây là tên loại vi rút gây bệnh gan tụy cho tôm. Tác nhân gây bệnh là một nhóm parvovirus có cấu trúc axit nucleic của DNA và có đường kính 22-24 nm. Virus ký sinh trong nhân tế bào gan tụy và biểu mô trước của ruột, không thể ẩn (occlusion body) mà có thể vùi (occlusion body), gây hoại tử và sưng tấy nhân tế bào chủ.
Tôm bị nhiễm vi rút HPV có xu hướng bỏ ăn, ăn ít hơn, ít hoạt động hơn, khiến chúng dễ bị nhiễm các sinh vật bám trên mang, vỏ và phần phụ của chúng. Gan tôm bị teo hoặc hoại tử, hệ thống cơ bụng bị mờ đục, tôm giống thường bị chết, tỷ lệ chết từ 50-100%.
Bệnh IHHNV
Khi mắc bệnh này, tôm có tỷ lệ chết lên đến 90%. Tác nhân gây ra hoại tử dưới biểu bì và cơ quan tạo máu là chi Parvovirus. Tôm nhiễm IHHNV thường bị lờ đờ, yếu ớt và dị dạng. Bệnh IHHNV chủ yếu lây lan theo chiều dọc và chiều ngang.
Trong một quần thể tôm nhiễm IHHNV, những con sống sót sẽ mang vi rút suốt đời và truyền cho con sau khi tham gia sinh sản (lây truyền dọc). Ngoài ra, con khỏe ăn phải con bệnh, làm cho bệnh lây lan nhanh chóng (lây nhiễm theo chiều ngang) trong quần thể tôm nuôi.
Baculoviral Midgut-gland Necrosis – BMN
Nguyên nhân gây ra BMN là do vi khuẩn baculovirus type C nhân đôi DNA và có thể ký sinh trong cơ thể tôm. Dấu hiệu đầu tiên khi tôm bị nhiễm bệnh là ấu trùng tôm lờ đờ, hoạt động chậm chạp, nổi trên mặt nước, gan tụy của tôm có màu trắng sữa và ruột bụng cũng có màu trắng đục.
Bệnh BMN thường xảy ra ở hậu ấu trùng có chiều dài từ 6 đến 9 mm. Tế bào biểu bì của ống gan tụy bị hoại tử rõ rệt. Nhân tế bào phình to, có màu đỏ đến tím nhạt đặc trưng.
Monodon Baculovirus – MBV
Đặc điểm của tôm nhiễm virus MBV là làm tôm còi cọc, chậm lớn, phân đàn rõ ràng, mang và các phần phụ thường bị các sinh vật bám vào. Tôm có màu xanh đậm hoặc xanh nhạt, hoại tử phần phụ và vỏ. Gan tụy có dấu hiệu teo, có màu trắng nhạt hoặc vàng nhạt.
Virus MBV không làm tôm chết hàng loạt nhưng làm tôm chậm lớn và chết rải rác. Khi đánh bắt, tỷ lệ sống của tôm rất thấp, đây là cảnh ngộ chung của người nuôi tôm ở các tỉnh ven biển.
Bệnh Rickettsia và Chlamydia ở tôm
Hai giống Rickettsia và Chlamydia gây bệnh gan tụy ở tôm he và tôm càng xanh. Chúng có kích thước rất nhỏ, chỉ từ 0,2 đến 0,7 micron. Hình dạng thường là hình cầu hoặc hình que ngắn, ký sinh nội bào. Bệnh đã được phát hiện ở tôm thẻ nuôi tại Singapore. Tôm sú nuôi ở một số vùng tại Malaysia cũng ghi nhận bệnh này. Rickettsia gây bệnh ở gan tụy tôm thẻ P. merguiensis. Ngoài ra, Rickettsia còn ký sinh nội bào ở tôm sú P. monodon. Chlamydia gây bệnh trong tế bào gan tụy tôm chân trắng P. vannamei. Trường hợp này được ghi nhận ở các trại nuôi tôm tại Mỹ.
Tôm bị bệnh đuôi đỏ (Taura)
Virus Taura Syndrom (TSV) được phát hiện lần đầu tiên tại Ecuador vào năm 1992. TSV nhanh chóng lây lan sang các nước châu Mỹ và châu Á. Virus này gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành nuôi tôm toàn cầu. Tác nhân gây bệnh là vi rút picornavirus thuộc họ Picornaviridae. Virus có hình cầu 20 cạnh, đường kính khoảng 30–32 nanomet. TSV ký sinh trong tế bào biểu mô và dưới biểu mô vùng đuôi tôm.
Với những chia sẻ trên mòng rằng có thể giúp bạn có thêm kiến thức về các bệnh trên tôm do virus và vi khuẩn gây ra. Để được tư vấn chi tiết hơn về các vấn đề ảnh hưởng đến tôm nuôi và cách sử dụng men vi sinh xử lý nước ao nuôi, xin hãy liên hệ ngay với chúng tôi theo Hotline: 0965.111.875.